Danh hieäu A Di Ñaø Phaät quaû thöïc ñuùng laø voâ thöôïng chuù
Quaû thöïc ñuùng laø voâ ñaúng ñaúng chuù

thegioicuclac.vn

THIỆN CĂN LÀ GÌ?

THIỆN CĂN LÀ GÌ?

Giảng giải: Hòa Thượng Tịnh Không
 

Trong Kinh Phật rất nhiều Chú, chẳng những chúng ta không hiểu, mà người Ấn Độ cũng không hiểu được, chẳng những người Ấn Độ không hiểu mà quỷ thần cũng không hiểu được.

Chư Phật Bồ Tát dùng phương pháp này để dạy ta điều gì?

Dạy ta buông bỏ vọng tưởng phân biệt chấp trước. Có phương pháp này, quý vị chỉ niệm thôi, không có ý nghĩa gì hết, chẳng có gì để suy nghĩ, cứ theo đó mà niệm, niệm lâu ngày, tâm sẽ định, cho nên đọc Chú là dạy ta được định, cũng có ý nghĩa, có ý nghĩa là dạy ta quán tưởng. Tam Mật nghĩa là miệng Trì Chú, tay kiết ấn, tâm quán tưởng, gọi là Tam Mật tương ưng.

Không tương đồng là để tiếp dẫn những căn tánh không tương đồng, Chư Phật Bồ Tát có năng lực, các Ngài có thể quán căn cơ chúng sanh, người này thích hợp dùng phương pháp nào, Ngài sẽ dùng phương pháp đó, thời gian rất ngắn là người này thành tựu, đây là lợi ích thù thắng nhất khi gặp Phật.

Đức Phật thấy đời nay qua đời khác ta làm những việc gì, tu tập pháp môn nào, Ngài biết rõ hết, cho nên phương pháp Ngài dạy rất khế cơ.

Vì sao?

Bởi trong đời quá khứ ta đã từng học qua, tiếp tục tu dễ dàng thành tựu, đạo lý là như vậy. Chư vị Tổ Sư dạy chúng ta, đọc tụng, nghe Kinh, đều không cho dùng tâm phân biệt chấp trước, dạy ta nghe Kinh lìa tướng nói năng, không nên phân biệt chấp trước lời nói.

Lìa tướng danh tự, những danh từ thuật ngữ trong Kinh, không nên chất chứa trong lòng. Lìa tướng tâm duyên, không nên suy nghĩ câu nói này có nghĩa là gì, cứ thế mà nghe.

Dùng cái gì?

Dùng trực giác, dùng trực giác mới dễ dàng đạt được tâm thanh tịnh, nghĩa là trong tâm không có ý niệm gì hết, tập trung tinh thần vào việc nghe Kinh, đọc Kinh cũng như vậy, toàn bộ tinh thần tập trung vào việc đọc Kinh, không chấp trước tướng văn tự, không chấp trước tướng danh tự, cũng không cần suy nghĩ văn tự này có nghĩa là gì, không cần suy nghĩ.

Đó là gì?

Là tu giới, định, huệ, tôi đã nói qua nhiều lần rồi. Một lúc củ đủ tam học giới định huệ, khi nghe giảng dùng phương pháp này, nghe giảng hai tiếng đồng hồ, thì hai tiếng đồng hồ đó tu giới định huệ. Đọc Kinh hai tiếng đồng hồ, cũng đang tu giới định huệ, trong tâm không khởi lên một vọng niệm nào hết, lâu ngày chày tháng hoát nhiên đại ngộ, sẽ thấy tánh.

Trong truyện ký ta thấy người xưa tu tập, ba năm, năm năm khai ngộ, tám năm, mười năm khai ngộ, thời gian không giống nhau, đến cuối cùng đều khai ngộ.

Chúng ta biết thời gian không giống nhau, bởi tập khí phiền não dày mỏng không đồng, người phiền não nhẹ dễ dàng khai ngộ, người phiền não nặng thời gian dài hơn một chút, chỉ cần nắm vững không buông, cứ như thế mà dụng công, chẳng có người nào không khai ngộ. Ngộ rồi khởi tu, ngộ rồi khởi tu là trải qua sự việc để luyện tâm.

Xem trong cuộc sống sinh hoạt hàng ngày, khi đối nhân xử thế có khởi tâm phân biệt chấp trước hay không?

Luyện công phu như thế.

Có đại từ đại bi giống như Chư Phật Bồ Tát chăng?

Thật sự buông bỏ, thì tâm vô duyên đại từ, đồng thể đại bi lưu xuất ra. Sau khi lưu xuất ra, sẽ có phương tiện tiếp dẫn chúng sanh. Nhân duyên chúng sanh được độ không giống nhau, khi nào họ thành thục, quý vị nhìn thấy một cách rõ ràng, đã thành thục chắc chắn quý vị giúp cho họ khai ngộ, đại triệt đại ngộ.

Chưa thành thục quý vị giúp họ tiến lên, từng bước từng bước tiến lên. Người không có thiện căn, giúp họ trồng thiện căn. Đây gọi là giáo hóa chúng sanh tam căn phổ độ. Không riêng Tịnh Tông tam căn phổ độ, tông môn, giáo môn cũng không ngoại lệ.

Chẳng có pháp nào không tương ưng với Thập Huyền Môn, cho nên mới nói viên minh cụ đức, trong tất cả pháp, pháp nào cũng viên minh cụ đức. Đây là nói về một chữ, một chữ cũng là viên minh cụ đức. Nhất tự chi trung chủ bạn công đức vô lượng vô biên, thị tức viên minh cụ đức chi huyền ý.

Chúng ta xem tiếp đoạn dưới. Hựu bỉ quốc độ. Chỉ cho Thế Giới Tây Phương Cực Lạc. Sắc thanh hương vị xúc, nhất nhất viên minh cụ đức. Cố kiến quang kiến thụ văn thanh khứu hương, mạc bất tăng ích thiện căn. Tăng ích thiện căn nghĩa là tăng trưởng thiện căn. Chư vị Tổ Sư của tông môn, hỏi chúng ta, ông biết không.

Sự nhắc nhở này vô cùng quan trọng, vì sao?

Nếu quý vị biết, sẽ giống chỗ này, không khác gì Thế Giới Cực Lạc, vấn đề ở chỗ quý vị có biết hay không. Nếu biết, ở đoạn này nói thấy quang, thấy cây, nghe thanh, ngửi hương, đều là tăng trưởng thiện căn của quý vị.

Thiện căn là gì?

Thông thường nói rằng năng tín, năng giải là thiện căn. Sau năng tín năng giải là năng ngộ. Xã hội ngày xưa chưa có khoa học kỹ thuật, chưa có những phương tiện truyền thông, chưa có phương tiện giao thông dễ dàng như ngày nay, giữa con người và con người.

Có nhiều người đến chết cũng không qua lại với nhau, sống trong thôn này, cả đời cũng không qua thôn bên kia, cho nên xã hội an định, tâm định. Xã hội ngày nay loạn. Tâm định tu tập dễ dàng, bất luận là Thích, Đạo, Nho đều có cao nhân.

Vì sao?

Bởi họ bị ô nhiễm không nhiều, rất ít nhiễm ô, tâm địa chân thành, tiếp cận thuần tịnh thuần thiện. Bậc đế vương thời xưa đều là Thánh Nhân, người Trung Quốc tôn xưng Hoàng Đế là Thánh Vương, mệnh lệnh của Hoàng Đế gọi là Thánh chỉ.

Đất nước Trung Quốc không giống phương Tây, chế độ quân chủ phương Tây, quân chủ là bá đạo ngang ngược, Trung Quốc không như vậy, những đế vương chân chánh của Trung Quốc, được người dân quí mến, vì sao?

Bởi họ có đức hạnh, họ đã tiếp nhận nền giáo dục hay.

Tổ Tông tích đức, bản thân có sự tu dưỡng tốt, mới đạt được địa vị này, cho nên họ lo cho nhân dân vô cùng chu đáo, nhiệm vụ của đế vương có ba chữ: Quân thân sư, nghĩa là ba nhiệm vụ của đế vương. 

Quân là người lãnh đạo, dẫn dắt nhân dân bá tánh đi đến đâu, quân dẫn đầu. Quân dẫn đầu chắc chắn là hiếu, để, trung, tín, lễ, nghĩa, liêm, sỉ, nhân, ái, hòa, bình, bản thân Đức Vua thực hành, người dân khâm phục, ủng hộ, theo Đức Vua, nghe lời Đức Vua.

Nhiệm vụ thứ hai là thân, là cha mẹ của muôn dân, phải nuôi dưỡng họ, nói cách khác, chăm lo đời sống vật chất cho họ.

***